Giới thiệu Hà Tiên Thập Cảnh
Từ lâu lắm rồi, Hà Tiên Thập Cảnh – vùng đất biên thùy cực nam tổ quốc thuộc tỉnh Kiên Giang, đã được biết đến như một nơi hội tụ nhiều danh lam thắng cảnh hoang sơ đầy quyến rũ tiêu biểu nhất của nam bộ. Thi sĩ Đông Hồ đã từng viết: Hà Tiên núi không cao, rừng không rậm, ngắm vui mắt không chán trong lòng. Có một ít hang động của Lạng Sơn, vài ngọn đá chơi vơi ngoài biển, một ít thạch thất, sơn môn của Hương Tích, vài cảnh Tây Hồ, đôi nét Hương Giang, một ít chùa chiền của Bắc Ninh, lăng tẩm Thuận Hóa, vài bãi cát Đồ Sơn, Cửa Tùng, Long Hải. Không chỉ đẹp về phong cảnh hữu tình, Hà Tiên còn được biết đến với những di tích lịch sữ gắn liền với các huyền thoại, các câu chuyện cổ tích.
Rừng thiền sít sát án ngoài tào,
Chuông giống chùa Tiêu tiếng tiếng cao.
Chày thỏ bạt vang muôn khóm sóng;
Oai kình tan tác mấy cung sao.
Não phiền kẽ nấu sôi như vạc.
Trí tuệ người mài sắc tựa đao.
Mờ mịt gẫm dường say mới tỉnh;
Phù sinh trong một giấc chiêm bao.

TIÊU TỰ THẦN CHUNG (CHÙA TAM BẢO)
Kim dự này là núi chốt then,
Xanh xanh dành trấn cửa Hà Tiên.
Ngăn ngừa nước dữ không vùng vẫy,
Che chở dân lành khỏi ngửa nghiêng.
Thế cả vững vàng trên Bắc hải;
Công cao đồ sộ giữa nam thiên.
Nước yên chẳng chút lông thu động,
Rộng bủa nhơn xa tiếp bách xuyên.

KIM DỰ LAN ĐÀO (NÚI PHÁO ĐÀI)
Kim Dự là một quả đồi nhỏ phía Tây Nam thị xã Hà Tiên. Thường gọi là núi Pháo Đài. Vì trên đó, từ hồi Triều Nguyễn đến hồi bị Pháp thuộc vẫn là cứ điểm quân sự để trấn giữ cửa biển, bảo vệ trấn Hà Tiên chống giặc ngoại xâm. Cách đây hơn một thế kỷ, Pháo Đài vẫn còn tách rời đất liền. Nay Pháo Đài dính với đất liền là do công sức xây đắp của các tù nhân thời thực dân Pháp. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí cho Pháo Đài là Đại Kim Dự, còn một cảnh Tiểu Kim Dự nữa. Có lẽ là chỗ đối cảnh với Đại Kim Dự về hướng Nam, mà nay đã dính liền vào đầu sơn phận núi Tô Châu, chỗ doi đất hiện giờ có miễu thờ Thủy Thần và miễu thờ Cá Ông Nam Hải. Ngày nay, chiếc cầu Tô Châu đã nối liền hai bờ Đại Kim Dự và Tiểu Kim Dự. Và dưới chân Pháo Đài là ngọn Hải Đăng, làm cho đôi bờ cửa biển Hà Tiên càng thêm duyên dáng, đáng yêu. Nơi đây rất lý tưởng cho những du khách thích thưởng ngoạn ngắm cảnh trời mây non nước và tận hưởng gió mát. Từ đây, ta có thể ngắm toàn cảnh thị xã Hà Tiên, thưởng thức “ Đông Hồ Ấn Nguyệt “ trong những đêm trăng sáng và ngắm cảnh hoàng hôn trên biển.
Lâm lộc ai rằng thú chẳng thanh.
Nửa kề nước biếc nửa non xanh
Duỗi co chẳng túng kiền khôn hẹp
Cúi ngửa vì vâng đức giáo lành
Lưu loát hưởng dư ơn nước thạnh
Ê hề sẵn có của trời dành
Đâu no thì đó là an lạc
Lựa phải chen cân chốn thị thành.

LỘC TRĨ THÔN CƯ (CẢNH ĐẸP MŨI NAI)
Bãi tắm Mũi Nai cách trung tâm Thị Xã Hà Tiên khoảng 6 km về hướng Tây, gồm hai điểm: bãi trước và bãi sau. Bãi tắm Mũi Nai không sâu thẳm mà thoai thoải dần và sóng ở đây ít ồn ào, hung hãn, rất yên tĩnh và hiền lành. Từ bờ ra chừng trăm mét vẫn an toàn, chúng ta có thể an tâm đùa giỡn với sóng nước. Mũi Nai nằm trong vùng biển vịnh Thái Lan. Xa xa có nhiều hòn đảo nhấp nhô, chếch về phía bên trái là quần đảo Hải Tặc, xa hơn nữa là đảo ngọc Phú Quốc nằm trãi dài mà chúng ta có thể nhìn rõ hơn trong những ngày trời quang mây tạnh. Đến Mũi Nai, tắm biển, hưởng nắng và gió biển sẽ giúp du khách thêm vui tươi, khỏe khoắn. Chúng ta có thể nằm võng hoặc ghế bố mà ngắm cảnh thiên nhiên, nhìn sóng nước từng đợt nhấp nhô, xô lượn vào bờ. Bạn sẽ thấy tâm hồn thanh thản, nhẹ nhàng. Chúng ta sẽ thưởng thức các đặc sản biển như: ốc nhảy, hào đá, cua, ghẹ, mực,. .. Bãi biển Mũi Nai là nơi mà tất cả các du khách đến Hà Tiên đều muốn thăm qua. Có thể nói khu vực đồng bằng sông Cửu Long, bãi tắm Mũi Nai là nơi lý tưởng nhất cho những du khách yêu thích biển đến tham quan du lịch.
Hai thức như thêu nước với trời
Bãi khói dưới kia hương lại bủa
Hồ gương trong đó gấm thêm rơi
Sóng chôn vảy ngạc tình chi xiết
Nhạn tả thơ trời giá mấy mươi
Một lá yên ba dầu lỏng lẻo
Đong trăng lường gió nước vơi vơi.

NAM PHỐ TRỪNG BA (BÃI BIỂN PHÍA NAM)
Nam Phố là một bãi biển cách thị xã Hà Tiên về hướng Nam khoảng 11km, thuộc ấp Bãi Ớt, xã Dương Hòa, huyện Kiên Lương. Bãi biển ở đây gần giống như một cái vịnh nhỏ được che chở bởi các ngọn núi, nên biển ở đây thường yên lặng hơn các nơi khác, gần như quanh năm êm đềm lặng sóng. Những ghe thuyền qua lại gặp mùa động Nam, muốn tránh sóng gió đều vào đây ẩn núp cho qua cơn trời động. Cảnh vật nơi đây còn rất hoang sơ và gần với thiên nhiên. Bãi tắm ở đây cũng khá đẹp và lý tưởng. Dân cư ở đây rất hiền hòa, sống bằng nghề trồng tiêu và làm nghề biển. Đến đây, chúng ta sẽ được thưởng thức những món đặc sản địa phương như gỏi cá trích, gỏi cá nhòng, con cà xỉu,… với hương vị rất riêng của miền biển.
Thạch động là một khối đá vôi khổng lồ, có độ cao khoảng 48m, nằm sát quốc lộ 80, cách trung tâm thị xã Hà Tiên về hướng Tây Bắc 3km. Từ xa trông Thạch Động như hình chiếc mũ lông của lính kỵ mã Anh quốc.

THẠCH ĐỘNG THÔN VÂN (THẮNG CẢNH THẠCH ĐỘNG)
Quỷ trổ thần xoi nổi một tòa,
Chòm cây khóm đá dấu tiên gia
Hang sâu thăm thẳm mây vun lại;
Cửa rộng thinh thinh gió thổi qua.
Trống lổng bốn bề thâu thế giới;
Chang bang một dãy chứa yên hà.
Chân trời mới biết kho trời đấy
Cân đái hèn chi rở ỷ la.

THẠCH ĐỘNG THÔN VÂN (THẮNG CẢNH THẠCH ĐỘNG)
Dân gian truyền rằng trong Thạch Động có đường thấu tới đỉnh nên ánh sáng mặt trời rọi xuống, đây là đường lên trời. Còn đường xuống địa phủ được dân gian gắn liền với huyền sử “Thạch Sanh giết Đại Bàng cứu công chúa Quỳnh Nga và Thái Tử con vua Thủy Tề”. Đường xuống địa phủ là một hang sâu thăm thẳm không biết đâu là cùng. Tương truyền rằng, có lần Tổng trấn Mạc Thiên Tích sai người theo cửa hang đi xuống để xem sao, người đó đi mãi chỉ nghe tiếng sóng, sợ quá phải quay trở lên. Một tương truyền khác, có người thử xem hang này ra sao, họ khắc chữ đánh dấu vào những trái dừa khô rồi thả xuống hang. Ít lâu sau, những người đi biển vùng Hà Tiên, Phú Quốc đều lượm được những trái dừa đó. Do hang sâu nguy hiểm nên đã được lấp từ những năm 1960. Trong hang có một ngôi chùa thờ Phật, ngôi chùa được dựng lên khi nào chưa rõ, cửa chùa cũng là cửa hang chính của Thạch Động, phía trên có ghi ba chữ “Tiên Sơn Tự ” với hai câu đối bằng chữ Hán: “Thạch thượng linh cơ lưu ngọc dịch; Động trung tĩnh địa ẩn kim tiên”. Thạch Động còn có tên cổ là núi Vân Sơn, theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí, tập 05 quyển 26, mục Sơn Xuyên Chí có chép như sau: “Núi Vân Sơn ở huyện Hà Tiên, cách Địa Tạng khoảng một dặm, có núi cao chừng bốn trượng, bốn bên vách đứng như cái cột kình thiêng, núi có động rộng 4_5 trượng, trong có chùa Bạch Vân”. Và mục Tự quán có chép: “Chùa Bạch Vân ở thôn Mỹ Đức, huyện Hà Tiên, trước do người Minh Hương là Đoàn Tân dựng, năm Thiệu Trị thứ 7 Tuần Phủ Phan Tùng bổ…”.
Một hồ lẻo lẻo tiết thu quang.
Giữa có vầng trăng nổi rõ ràng.
Đáy nước chân mây in một sắc;
Ả Hằng nàng Tố ló đôi phương.
Rạng thanh đã hứng thuyền
Tô tử Lạnh lẽo càng đau một kiến Nhạc xương
Cảnh một mà tình người dễ một
Kẻ thì ngả ngớn kẻ sầu thương.

ĐÔNG HỒ ẤN NGUYỆT (NGẮM BINH MINH TRÊN SÔNG ĐÔNG HỒ)
Đông Hồ là hồ ở phía Đông thành Hà Tiên, ấn nguyệt là trăng in. Thi nhân đã nhìn thấy bóng trăng in xuống mặt hồ y như cái ấn tròn đóng trên tờ giấy bạch. Và không phải bất kỳ lúc nào ta cũng được như thế mà đòi hỏi ta phải có lòng thành yêu cảnh, thăm tìm và chờ đợi. Vào đêm 16, 17 âm lịch, khoảng 07-08 giờ tối, ra bờ hồ, nhìn thẳng về hướng Đông mà đợi, đợi đến lúc trăng lên, chúng ta sẽ được nhìn chiếc ấn nguyệt in tròn vành vạnh trên mặt hồ. Vào những đêm trăng cảnh vật trên Đông Hồ rất đẹp, ánh trăng lung linh trên sóng nước mặt hồ mà ngày xưa Mạc Thiên Tích tưởng chừng tiên nữ lạc bước trần gian, đã làm nao lòng mạc khách đề thơ. Chúng ta có thể thả thuyền thưởng ngoạn trên Đông Hồ trong những đêm trăng cùng với bằng hữu, có nhạc, có thơ, có rượu, có những món ăn truyền thống của Hà Tiên, đắm mình trong không khí tao nhã như người xưa đã từng thưởng thức Đông Hồ, ta mới cảm nhận hết cái đẹp, cái thơ mộng của Đông Hồ. Đông Hồ chứa nước từ sông Giang Thành đổ vào và ăn thông ra biển để có hai mùa mặn ngọt, là nơi lý tưởng cho nhiều loại thủy cầm sinh sống. Những loài thủy cầm này đã góp phần nuôi sống con người Hà Tiên trong biết bao thế kỷ qua. Đông Hồ còn có hai ngọn núi Tô Châu ngày đêm soi bóng cùng với những thuyền chài, những ghe lưới, … càng làm tăng vẽ thơ mộng và hữu tình của Đông Hồ.
Trống quân giang thú nổi uy phong,
Nghiêm giống đòi canh ỏi núi sông.
Đánh phá mặt gian người biết tiếng;
Vang truyền lịnh sấm chúng nghiêng lòng.
Phao tuông đã thấy yên ba vạc;
Nhiệm nhặt chi cho lọt mảy lông
Thỏ lụn sớm hầu chờ bóng ác;
Tiếng xe sầm sạt mới nên công.

GIANG THÀNH DẠ CỔ (TIẾNG TRỐNG CẦM CANH BÊN BỜ SÔNG)
Sau khi tiếp nối cơ nghiệp của cha, Mạc Thiên Tích tăng cường việc xây dựng và bố phòng chung quanh Phương Thành. Do vị trí địa lý, việc thông tin từ vùng phía Bắc về Hà Tiên rất khó khăn (lúc này kinh Vĩnh Tế chưa được đào, chỉ có sông Giang Thành). Ông đã cho đắp một con đường nhỏ, chủ yếu dùng cho việc liên lạc hỏa tốc, đủ một người một ngựa, bắt đầu từ Đá Dựng chạy dài đến bờ Bắc sông Giang Thành với nhiều vọng gác. Tục truyền, cứ bắt đầu một hồi trống gác đánh từ Hà Tiên đến hồi trả lại là đúng một giờ. Đường này còn có tên là lộ sứ Tự Đức, đến nay hầu như không còn để lại dấu vết. Giang Thành ngày nay chỉ là một địa danh thuộc xã Tân Khánh Hòa, huyện Kiên Lương, cách thị xã Hà Tiên khoảng 10km, là chỗ ngã ba tiếp giáp kinh Vĩnh Tế từ Châu Đốc chảy sang, liền với thượng lưu con sông Giang Thành. Mà trước đây vào thời Minh Mạng, Giang Thành đã từng là một quận của tỉnh Hà Tiên.
Bến Vược nhà ngư chật mấy từng
Trong nhàn riêng có việc lăng xăng.
Lưới chài phơi trải đầy trời hạ,
Gỏi rượu say sưa tọai nghiệp hằng,
Nghề Thuấn hãy truyền bền trác trác,
Dân Nghiêu còn thấy đủ răng răng.
So đây mười cảnh thanh hòa lạ,
Hòa cảnh Đào nguyên mới sánh chăng.

LƯ KHÊ NGƯ BẠC (XÓM CHÀI RẠCH VƯỢC)

BÌNH SAN ĐIỆP THÚY (THẮNG CẢNH TRÊN NÚI BÌNH SAN)
Quần thể núi Bình San có một vị trí khá đặc biệt. Ở đây, thi sĩ họ Mạc đã ví như “một bức tường thành che chắn mặt phía Tây thành Hà Tiên”. Họ Mạc đã chọn khu vực này để xây lăng mộ của dòng họ và các tôi thần trung nghĩa. Và cũng chính điều này mà nhân dân còn gọi Bình San là núi Lăng. Trên núi thì có lăng tẩm của vị Khai Trấn Quốc Công Mạc Cửu, vị tướng kiêm nhà thơ Mạc Thiên Tích cùng lăng mộ con cháu dòng họ Mạc và lăng mộ các tướng sĩ đã theo giúp họ Mạc xây dựng và bảo vệ Hà Tiên. Còn dưới chân núi là đền thờ họ Mạc, hay còn gọi là Mạc Công Miếu với hai câu đối: “Nhất môn trung nghĩa gia thịnh trọng; Thất diệp phiên hàn quốc sủng vinh”, như ghi lại công lao của họ Mạc đối với đất Hà Tiên. Trong miếu còn có bút tích của ông Nguyễn Thần Hiến là một nhà yêu nước tham gia hoạt động cách mạng chống Pháp trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ XIX, trên tường ghi lại những bài thơ chữ nôm do Mạc Thiên Tích sáng tác (qua nhiều lần trùng tu, bút tích này được phục chế khắc trên gỗ). Trước đền, hiện có ba ao trồng sen. Riêng ao bìa bên trái (từ cổng nhìn ra), xưa kia được gọi là “bán nguyệt liên trì” vì có dạng nửa hình tròn được đào từ thời Mạc Thiên Tích để lấy nước cho dân sử dụng. Trên Bình San còn hai di chỉ của nền Sơn Xuyên và nền Xã Tắc do Mạc Thiên Tích lập ra để hành lễ vào các ngày trọng đại. Nền Sơn Xuyên là chỗ tế thần núi thần sông, ở chỗ cao chót núi, chỗ nhìn ra Kim Dự. Nền Xã Tắc là chỗ tế hậu thổ thần nông, ở chỗ thấp giữa lưng núi, chỗ bây giờ đã có vườn tược trồng trọt. Đối với Nhà Nguyễn, thời Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích, Hà Tiên được hưởng một chế độ cai trị đặc biệt, như một “tiểu quốc”. Do đó, họ Mạc cho lập hai nơi này để tế cáo trời đất (giống như Vua_Chúa nhà Nguyễn). Từ năm 1708 đến năm 1770, Trấn Hà Tiên dưới thời Mạc Cửu và nhất là Mạc Thiên Tích (con Mạc Cửu), đã là một thương cảng sầm uất, mà sử thần nhà Nguyễn là Trịnh Hoài Đức viết “là một nơi đô hội ở miền biển”. Tàu buôn các nước trong khu vực lui tới Hà Tiên khá tấp nập để trao đổi và mua bán nhiều sản vật quí hiếm đi nhiều nơi như Malaysia, Hải Nam,…

CHÂU NHAM LẠC LỘ (THẮNG CẢNH ĐÁ DỰNG)
Hiện nay, trong các hang hốc của Đá Dựng, có nhiều vỏ hào, vỏ ốc còn dính lại trên vách đá, chứng tỏ xưa kia nơi đây là đầm nước. Ao đầm vũng vực, chính là nơi thích nghi cho loại chim, loại cò, loại le le, vịt nước sinh hoạt. Cứ như thơ văn sách vỡ cũ xét thấy thì dãy Đá Dựng này xưa kia là một sân chim như các sân chim ở Rạch Giá, Cà Mau. Các sách chữ Hán viết là Điểu Đình. Do quá trình thay đổi về địa chất và địa hình qua hàng nghìn năm đã tạo nên núi Đá Dựng ngày nay. Đá Dựng có một vị trí chiến lược quân sự quan trọng nên đã trở thành căn cứ cách mạng của Đảng bộ và Quân dân Hà Tiên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Cụ thể là: lực lượng ta chưa đến 100 người với lòng quả cảm và ý chí kiên cường, các chiến sĩ cách mạng đã giữ vững căn cứ Đá Dựng qua cuộc chiến đấu suốt 27 ngày đêm tháng 05 năm 1970. Bây giờ ở các hang của Đá Dựng dấu tích của trận chiến năm xưa vẫn còn. Đến tham quan Đá Dựng để hiểu vì sao иá Dựng đi vào lịch sử đấu tranh của Đảng bộ và Quân dân Hà Tiên như một truyền thống hào hùng. Mỗi hang của Đá Dựng có một vẻ đẹp riêng và rất huyền bí. Các hang với những tên gọi như: hang Mẹ Sanh, hang Bồng Lai, hang Thần Kim Qui, hang Biệt Động, hang Khổ Qua,…